Thực đơn
Phần_Lan Chính trịPhần Lan đã có hiến pháp và hình thức chính quyền riêng khi còn là một đại công quốc tự trị thuộc Nga. Hiến pháp Phần Lan được phê chuẩn ngày 17 tháng 7 năm 1919 và vẫn còn hiệu lực cho đến ngày nay. Về cơ bản, hiến pháp đảm bào các quyền công dân, mọi người bình đẳng trước pháp luật. Quyền lực tối cao nằm trong tay người dân, mà quốc hội là đại diện.
Quốc hội Phần Lan gồm một viện với 200 ghế. Năm 1928, luật quốc hội được thông qua. Nó đặt ra cơ cấu, trách nhiệm và cơ chế bầu cử quốc hội. Các thành viên trong quốc hội được bầu theo hình thức phổ thông đầu phiếu với nhiệm kỳ 4 năm. Theo hiến pháp, quốc hội bầu ra thủ tướng, sau đó được tổng thống bổ nhiệm vào nội các. Các bộ trưởng cũng được tổng thống bổ nhiệm dựa trên sự đề xuất của thủ tướng.Trong vài thập kỷ qua quyền lực của Tổng thống đã bị giảm bớt. Trong bản sửa đổi hiến pháp, có hiệu lực vào năm 1991 hoặc 1992 cùng với một hiến pháp mới được soạn thảo năm 2000, được sửa đổi vào năm 2012, Tổng thống đã dần dần trở thành một nhân vật mang tính nghi thức. Nhiều tổng thống đã từng là thủ tướng trước khi tiếp nhận chức tổng thống. Juha Sipilä là Thủ tướng Phần Lan hiện tại, đồng thời là chủ tịch Đảng Trung tâm Phần Lan, một đảng trung dung.
Sau cuộc bầu cử quốc hội ngày 19 tháng 4 năm 2015, các ghế trong quốc hội được phân chia như sau
Đảng | Số ghế |
---|---|
Đảng Trung tâm | 49 |
Đảng Người Phần Lan thực thụ (Perussuomalaiset) | 38 |
Đảng Liên minh dân tộc | 37 |
Đảng Dân chủ xã hội | 34 |
Đảng Liên hiệp xanh | 15 |
Liên minh cánh tả | 12 |
Đảng Người Thụy Điển | 9 |
Liên đoàn Thiên chúa giáo | 5 |
Khác (đại diện tỉnh Åland) | 1 |
Tổng thống là người đứng đầu nhà nước Phần Lan, được bầu cử với nhiệm kỳ 6 năm. Kể từ năm 1991, không vị tổng thống nào được tại nhiệm quá hai nhiệm kỳ liên tiếp. Tổng thống phải là người Phần Lan. Các chính đảng có ít nhất 1 ghế trong quốc hội được quyền đề cử ứng viên tổng thống. Tuy nhiên bất cứ ai thu được hơn 20000 chữ ký cũng có thể ứng cử.
Tổng thống hiện tại là Sanna Marin, nhậm chức kể từ 10/12/2019, tại tuổi 34, trở thành vị Thủ tướng hiện tại trẻ nhất đang phục vụ và Thủ tướng Phần Lan trẻ nhất từ trước tới nay.
Các đời tổng thống Phần Lan | ||
---|---|---|
Tên | Năm sinh, năm mất | Thời gian tại chức |
Kaarlo Juho Ståhlberg | 1865–1952 | 1919–1925 |
Lauri Kristian Relander | 1883–1942 | 1925–1931 |
Pehr Evind Svinhufvud | 1861–1944 | 1931–1937 |
Kyösti Kallio | 1873–1940 | 1937–1940 |
Risto Heikki Ryti | 1889–1956 | 1940–1944 |
Carl Gustaf Emil Mannerheim | 1867–1951 | 1944–1946 |
Juho Kusti Paasikivi | 1870–1956 | 1946–1956 |
Urho Kaleva Kekkonen | 1900–1986 | 1956–1981 |
Mauno Henrik Koivisto | 1923–2017 | 1982–1994 |
Martti Oiva Kalevi Ahtisaari | 1937– | 1994–2000 |
Tarja Kaarina Halonen | 1943– | 2000–2012 |
Sauli Väinämö Niinistö | 1948- | 2012-2019 |
Sanna Mirella Marin | 1985 - | 2019 - |
Rút ra được những bài học kinh nghiệm từ quá khứ của lịch sử, trong nhiều thập kỷ qua, Phần Lan luôn theo đuổi đường lối đối ngoại trung lập tích cực; giữ cân bằng trong quan hệ với các nước lớn, các khối; không tham gia các khối quân sự; ủng hộ và thúc đẩy cho các hoạt động vì hoà bình, giải trừ quân bị, làm giảm căng thẳng tình hình quốc tế; ủng hộ đối thoại giữa các nước và khu vực.
Năm 2008, Phần Lan là Chủ tịch Tổ chức An ninh và Hợp tác châu Âu (OSCE). Phần Lan là thành viên tích cực của EU, ưu tiên quan hệ với các nước láng giềng như các nước Bắc Âu, Nga và các nước ở vùng biển Baltic. Mới đây, Phần Lan đã thông qua Hiệp ước Lisbon. Hiện nay, Phần Lan đang tham gia vào chương trình Đối tác vì Hoà bình (Partnership for Peace) với NATO và vẫn để ngỏ cửa cho việc tham gia NATO (tuy nhiên phần lớn dân Phần Lan muốn tiếp tục thực hiện chính sách đối ngoại trung lập). Chính phủ Phần Lan cũng chú trọng phát triển quan hệ với châu Á, nhất là với các nền kinh tế đang nổi lên để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Phần Lan thâm nhập thị trường, phát triển hoạt động đầu tư kinh doanh. Phần Lan trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) năm 1950; Liên Hiệp Quốc và Hội đồng Bắc Âu năm 1955; Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) năm 1969; liên kết với Hiệp hội Mậu dịch tự do châu Âu (EFTA) năm 1961 và trở thành thành viên đầy đủ năm 1986; ký Hiệp định Tự do thương mại với Cộng đồng Kinh tế châu Âu (EEC) năm 1973. Phần Lan gia nhập Liên hiệp châu Âu (EU) từ ngày 1 tháng 1 năm 1995 và EMU từ 1 tháng 1 năm 1999. Ngoài ra, Phần Lan cũng là thành viên của Tổ chức Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF) và nhiều ngân hàng phát triển trên thế giới như ADB...
Phần Lan bao gồm 19 khu vực được gọi là maakunta bằng tiếng Phần Lan và landskap bằng tiếng Thụy Điển. Các khu vực được quản lý bởi các hội đồng khu vực đóng vai trò là diễn đàn hợp tác cho các đô thị của một khu vực. Nhiệm vụ chính của khu vực là quy hoạch vùng và phát triển doanh nghiệp và giáo dục. Ngoài ra, các dịch vụ y tế công cộng thường được tổ chức trên cơ sở các vùng. Hiện tại, khu vực duy nhất nơi một cuộc bầu cử phổ biến được tổ chức cho hội đồng là Kainuu. Hội đồng khu vực khác được bầu bởi các hội đồng thành phố, mỗi đô thị gửi đại diện theo tỷ lệ dân số của nó.
Phần Lan được chia thành 6 tỉnh Åland • Đông Phần Lan • Lapland • Nam Phần Lan • Oulu • Tây Phần Lan, ngoài ra, Åland được chỉ định là tỉnh thứ bảy.
Hệ thống tư pháp của Phần Lan là một hệ thống luật dân sự được phân chia giữa những tòa án với thẩm quyền dân sự và hình sự thường xuyên với những tòa án hành chính có thẩm quyền đối với các vụ kiện giữa các cá nhân và chính quyền công. Luật Phần Lan được luật hóa và dựa trên luật pháp Thụy Điển và rộng hơn là bộ luật La Mã. Hệ thống tòa án dân sự và quyền tài phán hình sự bao gồm các tòa án địa phương (käräjäoikeus, tingsrätt), tòa phúc thẩm khu vực (hovioikeus, hovrätt), và Tòa án tối cao (korkein oikeus, högsta domstolen). Chi nhánh hành chính của tòa án bao gồm các tòa án hành chính (hallinto-oikeus, förvaltningsdomstol) và Tòa án Hành chính Tối cao (korkein hallinto-oikeus, högsta förvaltningsdomstolen). Ngoài các tòa án thông thường, có một vài tòa án đặc biệt ở chi nhánh nhất định của chính quyền. Ngoài ra còn có một Tòa án Tối cao chuyên luận tội đối với các cáo buộc hình sự chống lại các cán bộ cấp cao trong chính quyền.
Khoảng 92% người dân Phần Lan tuyên bố họ tin tưởng vào lực lượng an ninh của đất nước này [16]. Tỷ lệ tội phạm của Phần Lan nhìn chung là không cao trong số các nước EU. Một số loại tội phạm có tỉ lệ ở trên mức trung bình, đáng chú ý tỷ lệ giết người ở Phần Lan là cao nhất trong số các nước Tây Âu [17].
Phần Lan đã chiến đấu mạnh mẽ để chống lại tình trạng tham nhũng trong bộ máy chính phủ từ những năm 70 và 80. Ngày nay, Tổ chức Minh bạch Quốc tế xếp hạng Phần Lan là một trong những quốc gia ít tham nhũng nhất ở châu Âu.
Phần Lan có một trong những hệ thống an sinh xã hội rộng rãi nhất thế giới, một hệ thống đảm bảo tốt điều kiện sống cho tất cả người dân. Kể từ những năm 1980, an sinh xã hội đã được cắt giảm, nhưng hệ thống an sinh xã hội của Phần Lan vẫn là một trong những hệ thống an sinh xã hội phát triển toàn diện nhất và tiến bộ nhất trên thế giới. Hệ thống an sinh xã hội (giáo dục, y tế, phúc lợi) của Phần Lan được hình thành trong 3 thập niên đầu tiên sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, ngày càng được bổ sung, hoàn chỉnh.
Kế hoạch hưu trí của Phần Lan được hình thành từ năm 1937, đến năm 1957, chính phủ Phần Lan thiết lập một kế hoạch lương hưu cải thiện tạo cơ sở để hình thành Luật Hưu trí quốc gia. Vào đầu thập niên 60, kế hoạch lương hưu được bổ sung thêm quỹ lương hưu tư nhân. Trợ cấp thất nghiệp được hình thành vào năm 1959 và 1960, đổi mới vào năm 1972. Trong những thập niên 50 và 60, việc xây dựng mạng lưới bệnh viện, giáo dục nhân sự về y tế được thực hiện nhiều hơn. Hệ thống trợ cấp nhà ở được mở rộng trong thập niên 60, hướng tới toàn bộ dân cư. Từ năm 1963 tới đầu thập niên 70, hệ thống bảo hiểm sức khỏe được thiết lập. Các quan chức y tế bắt đầu nhấn mạnh đến các bệnh viện địa phương nhỏ hơn.
Vào thập niên 80, chi phí xã hội ở Phần Lan chiếm khoảng 24% GDP. Chưa tới 10% chi phí này do những người lao động trả, phần còn lại do nhà nước và chủ lao động trả. Cuối thập niên 80, Bộ Quan hệ xã hội và Sức khỏe định hướng hệ thống phúc lợi thông qua năm vụ: Bảo hiểm xã hội, Phúc lợi xã hội, Y tế, Chính sách chất cồn và điều độ, và Lao động. Trong chính sách xã hội, có 3 ban chủ yếu chịu trách nhiệm về phúc lợi xã hội, y tế và bảo hộ lao động. Các quan chức cấp tỉnh giám sát các chính quyền địa phương – các chính quyền tự trị – cung cấp chăm sóc xã hội. Đầu thập niên 80, nhà nước chi trả 30% cho lương hưu và các dịch vụ xã hội, chủ lao động trả 40%, chính quyền địa phương 15% và người nhận dịch vụ trả phần còn lại. Mọi người dân ở Phần Lan không phải trả tiền cho giáo dục ở bất kỳ mức học nào, kể cả khi theo học trường y hay trường luật. Người về hưu ở Phần Lan được chăm sóc tốt, còn người thất nghiệp được hưởng mức trợ cấp thất nghiệp rất cao.
Hệ thống an sinh xã hội của Phần Lan cung cấp cho người dân:
Thực đơn
Phần_Lan Chính trịLiên quan
Phần Lan Phần Lan hóa Phần Lan (Sibelius) Phân lân nung chảyTài liệu tham khảo
WikiPedia: Phần_Lan //nla.gov.au/anbd.aut-an35740333 http://www.gallup-europe.be/downloads/EUICS%20-%20... http://www.hls-dhs-dss.ch/textes/f/F003353.php http://www.britannica.com/EBchecked/topic/207424 http://www.lifeinlapland.com/articles/lapland-trav... http://www.prosperity.com/country.aspx?id=FI http://aleph.nkp.cz/F/?func=find-c&local_base=aut&... http://catalogo.bne.es/uhtbin/authoritybrowse.cgi?... http://appsso.eurostat.ec.europa.eu/nui/show.do?da... http://www.arkisto.fi/